Hình ảnh trượt đốt sống thắt lưng

Giới thiệu

Trượt đốt sống ra trước (spondylolisthesis) là sự di lệch ra trước của đốt sống so với đốt sống bên dưới, ngược lại, khi đốt sống phía trên di lệch ra sau so với đốt sống bên dưới được gọi là trượt đốt sống ra sau (retrolisthesis). Thuật ngữ spondylolisthesis được sử dụng lần đầu tiên bởi Killia vào năm 1853; trượt đốt sống có thể là hậu quả khi một cấu trúc của cung thần kinh đốt sống (vertebral neural arch) bị tổn hại. Khi các phim X quang cột sống nghiêng cho thấy tình trạng trượt đốt sống thì cần đánh giá thêm về mức độ và nguyên nhân gây trượt, cũng như nguyên nhân gây chèn ép rễ thần kinh liên quan. Bởi vì cả khuyết phần liên mỏm khớp (spondylolysis) và trượt đốt sống (spondylolisthesis) có thể không có triệu chứng, nên người đọc X quang cũng giữ vai trò xác định các nguyên nhân của đau lưng và đau chân bởi chúng có thể phát sinh từ các đoạn cột sống khác nhau. Phân loại trượt đốt sống thắt lưng được Wiltse và cộng sự làm từ năm 1976. Bản phân loại sửa đổi được trình bày trong Bảng 1. Read the full post »

Giải phẫu cung sau của đốt sống thắt lưng

Giải phẫu cung sau của đốt sống thắt lưng. Mẫu giải phẫu (a-c) và chụp CT dựng hình thể tích (volume rendering, kết xuất đồ họa thể tích)(d-f) minh họa giải phẫu cung sau. Nhìn nghiêng bên trái (a,d), nhìn trên (b,e) và nhìn sau (c,f). Mỗi đốt sống gồm một thân đốt sống ở phía trước và một cung ở phía sau. Thân và cung tạo thành lỗ đốt sống (*). Từ cung thần kinh (neural arch) có một mỏm gai (Sp) lồi ra sau và hai mỏm ngang (T) kéo dài từ bờ ngoài của cung. Những mỏm xương này là vị trí quan trọng cho các cơ sâu của lưng bám. Chúng cũng chia cung thần kinh thành các phần khác nhau. Phần cung thần kinh giữa mỏm gai và mỏm ngang là mảnh (L) và phần của cung giữa mỏm ngang và thân đốt sống là cuống (P). Cuống của mỗi đốt sống có khuyết ở bờ trên và bờ dưới. Khuyết của hai đốt sống liên tiếp tạo thành một lỗ, lỗ gian đốt sống (O) để các thần kinh gai sống đi qua. Các mỏm khớp trên (S) và mỏm khới dưới (I) lồi ra từ các trụ khớp, đó là các phần xương ở chỗ nối của mảnh và cuống. Mỏm khớp dưới có mặt hướng ra trước và ở phía sau so với mỏm khớp trên. Read the full post »

CHÚC MỪNG NĂM MỚI

anime-chuc-tet-2017-1458633884dccdc

Chẩn đoán hình ảnh các hội chứng mạch máu chèn ép thần kinh. Phần 2: Dây thần kinh sọ não số VII, VIII, IX

Dây thần kinh mặt (dây số VII)

Giải phẫu

Dây thần kinh số VII là dây hỗn hợp, chủ yếu kiểm soát các cơ biểu cảm của mặt, truyền cảm giác vị giác từ 2/3 trước của lưỡi, cung cấp các sợi phó giao cảm tới niêm mạc mũi, các tuyến dưới hàm, tuyến dưới lưỡi và tuyến lệ. Thành phần vận động của dây VII được xem xét kỹ trong bài này. Dây VII ra khỏi thân não dưới dạng một thực thể đơn ở đoạn bể não (Hình 1). Tương tự với dây V, phần lớn các trường hợp mạch máu chèn ép thần kinh VII cũng xảy ra ở đoạn bể não. Theo một nghiên cứu [11], chiều dài đoạn bể não của dây VII là 17.93 ± 2.29 mm (14.8 – 20.9 mm). Trong một nghiên cứu khác [46], TZ được miêu tả là bắt đầu cách chỗ vào/ra thân não 1.9 mm, tức là 1/10 chiều dài đoạn bể não của nó [47]. Một nghiên cứu khác báo cáo rằng phần xa nhất của TZ cách thân não 2.86 mm [11]. Bằng cách suy luận những số liệu này, chúng ta có thể ước đoán chiều dài của TZ khoảng 0.96 mm (nằm cách đoạn thân não 1.9 mm đến 2. 86 mm). Tương tự với dây V, phần trong của TZ cũng ngắn hơn phần ngoài của nó [46, 47]. Read the full post »

Chẩn đoán hình ảnh các hội chứng mạch máu chèn ép thần kinh. Phần 1: Dây thần kinh sọ não số V

 

Hội chứng mạch máu chèn ép thần kinh được định nghĩa là các mạch máu tiếp xúc trực tiếp và gây nên kích thích cơ học đối với các dây thần kinh sọ [1-5]. Các hội chứng mạch máu chèn ép thần kinh phổ biến nhất là đau dây thần kinh sinh ba (chèn ép dây thần kinh sọ số V), co giật nửa mặt (dây thần kinh sọ số VII), đau dây thần kinh tiền đình-ốc tai (dây thần kinh sọ số VIII), đau thần kinh lưỡi-hầu (dây thần kinh sọ số IX). Bởi vì tiếp xúc mạch máu và thần kinh là các dấu hiệu hình ảnh thường gặp ở những người không có triệu chứng, cho nên cần xác định một vài yếu tố có thể gây ra những triệu chứng khi có tiếp xúc mạch máu-thần kinh. Thứ nhất, các động mạch thường gây ra hội chứng chèn ép thần kinh hơn các tĩnh mạch, giả thuyết là do mạch đập và áp lực cao hơn [5,6]. Thứ hai, vị trí giải phẫu chỗ tiếp xúc mạch máu-thần kinh cũng là một yếu tố có liên quan. Read the full post »

Siêu âm xơ gan

Xơ gan đặc trưng bởi sự xơ hóa bắc cầu lan rộng và vô số nốt tái sinh thay thế nhu mô gan bình thường. Xơ gan là chặng cuối phổ biến của rất nhiều nguyên nhân gây tổn thương gan mạn tính. Các nguyên nhân phổ biến của xơ gan được tóm tắt trong bảng bên dưới. Read the full post »

Chẩn đoán hình ảnh u tụy

Tụy là tuyến tiêu hóa phụ có chức năng quan trọng (nội tiết và ngoại tiết) nằm trong khoang sau phúc mạc. Tụy có kích thước nhỏ, cấu trúc và liên quan giải phẫu phức tạp. Do tụy nằm phía sau các tạng ổ bụng, nằm vắt ngang sát phía trước cột sống nên cần nhiều phương pháp như siêu âm, cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ để chẩn đoán bệnh lý và u tụy. Read the full post »

Chúc mừng năm mới

Xuân Bính Thân 2016

Chúc các bạn và gia đình an khang, thịnh vượng!

Siêu âm phân loại BI-RADS 3, 4 và 5 các khối của vú

1. Lời giới thiệu
Vào năm 2003, nhận thấy siêu âm được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán hình ảnh vú, Hiệp hội Điện quang Mỹ (ACR) đã thành lập ấn bản đầu tiên về từ vựng BI-RADS (Breast Imaging Reporting and Data System) cho siêu âm trong một nỗ lực để tiêu chuẩn hóa báo cáo và diễn giải hình ảnh, và để cải thiện việc thông tin giữa các nhà điện quang, các bác sỹ giới thiệu bệnh nhân (referring physician) và các nhà phẫu thuật (1). Tuy nhiên, từ vựng BI-RADS siêu âm (cho đến nay vẫn là bản thứ nhất) đã không được củng cố bằng số liệu có quy mô lớn, mạnh về thống kê đối với các kết quả nghiên cứu, và do đó ít được thừa nhận so với từ vựng BI-RADS cho xquang vú. Read the full post »

David Sackett, ‘Father of Evidence-Based Medicine,’ Dies at 80

1- David Sackett, MD, the reputed father of evidence-based medicine (EBM), died Wednesday, May 13, at age 80, but lived long enough to see physicians using smartphones to look up practice guidelines at a patient’s bedside. It was an inevitable outcome of the movement he spawned. http://www.medscape.com/viewarticle/844845

2- Dr. Sackett, professor emeritus at McMaster University in Hamilton, died on May 13 at the age of 80 of metastatic cholangiocarcinoma (cancer of the bile ducts).

He is widely known as the father of evidence-based medicine, a movement The BMJ (formerly known as the British Medical Journal) described as one of the most important medical advances in the past 150 years, alongside the discovery of vaccines and antibiotics.

“He was a giant among giants,” P.J. Devereaux, a professor of clinical epidemiology and biostatistics at McMaster, said in an interview. “He will be remembered as one of the greats, on a par with William Osler.” http://www.theglobeandmail.com/life/health-and-fitness/health/david-sackett-the-father-of-evidence-based-medicine/article24607930/

3- According to Cochrane Canada, Sackett “turned clinical research into a scientifically sound and practical multidisciplinary ‘team sport,’ and has changed for the better the quality of healthcare research and clinical practice.” http://www.cmaj.ca/site/misc/david_sackett.xhtml

Tương quan hình ảnh siêu âm, X quang vú và giải phẫu bệnh u vú

Vai trò của siêu âm trong chẩn đoán u vú
Hiện nay vai trò của siêu âm vú đã mở rộng đáng kể do kỹ thuật và độ phân giải hình ảnh được cải thiện. Với đầu dò dạng thẳng (line arrays), độ phân giải cao hơn nên thấy rõ các tổn thương nhỏ và các chi tiết nhỏ hơn. Vai trò chủ yếu của siêu âm vú ban đầu là phân biệt khối đặc với khối dạng nang [1,2,3,4]. Read the full post »

Chẩn đoán hình ảnh u lách

Hình ảnh tổn thương lách ngày càng được phát hiện nhiều do yêu cầu khảo sát hình ảnh ổ bụng bằng siêu âm, cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ tăng lên và phương tiện sẵn có. Tuy vậy hình ảnh chẩn đoán của lách luôn là thách thức với bác sỹ lâm sàng, bác sỹ ung bướu và ngay cả bác sỹ chuyên khoa chẩn đoán hình ảnh. Lý do chính là các bất thường của lách và đặc biệt với u lách hiếm gặp, không triệu chứng, phát hiện tình cờ.
U lách gồm u nguyên phát và u thứ phát. Trong thực hành lâm sàng, u lách nguyên phát có thể phân loại rộng rãi thành u lympho bào, u nguồn gốc mạch máu và các tổn thương giống u. U nguyên phát nguồn gốc mạch máu gồm các tổn thương lành tính như u máu (hemangioma), u mạch bạch huyết (lymphangioma) và u mô thừa (hamartoma), dạng trung gian ác tính như u tế bào quanh mạch máu (hemangiopericytoma), u mạch tế bào rìa (littoral cell angioma) và loại ác tính thực sự là ung thư liên kết mạch máu (hemangiosarcoma).
Kiến thức về lâm sàng, giải phẫu bệnh, và hình ảnh chẩn đoán u lách rất quan trọng trong chẩn đoán và điều trị, nhưng rất ít khi được tổng hợp hệ thống, cập nhật và phổ biến rộng rãi. Bài này tổng hợp y văn hiện nay về bệnh học, lâm sàng và đặc điểm hình ảnh các khối u lách, nhằm vào những đặc điểm cho phép chẩn đoán cụ thể hơn. Read the full post »

Happy New Year 2015

 

chuc mung nam moi

 

Tóm lược hình ảnh thoái hóa cột sống

Giải phẫu khớp gian đốt sống

  • Nhân nhầy (nucleus, hình 1) nằm hơi lệch sau, đư­ợc các sợi của vòng xơ bao bọc.
  • Thân đốt sống có viền x­ương (epiphyseal ring, hình 1) nhô cao, trung tâm lõm đ­ược đĩa sụn (cartilage endplate) phủ, bên d­ưới là bản x­ương d­ưới sụn (mũi tên, hình 2)
  • Vòng xơ gắn với đĩa sụn và viền x­ương bằng sụn vôi hóa (mũi tên rỗng, hình 1).
  • Các sợi vòng ở phía trư­ớc móc vào mặt tr­ước thân đốt gọi là sợi Sharpey (đầu mũi tên, hình 1).
  • Dây chằng dọc tr­ước dính chặt ở giữa thân đốt sống, lỏng ở mặt trư­ớc vòng xơ

Read the full post »

Phim X quang bụng: phân loại các mẫu hình khí

 

Phim X quang bụng từ lâu đã có vai trò quan trọng trong đánh giá các trường hợp cấp cứu đau bụng. Hiện nay có nhiều phương tiện chẩn đoán hình ảnh tiên tiến như siêu âm, phim cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ, nhưng chụp phim X quang bụng vẫn là một trong những chỉ định được yêu cầu nhiều nhất trong cấp cứu bụng.
Mặc dù các phim X quang bụng nói chung có hiệu quả thấp và phần lớn cho một mẫu hình phân bố khí không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, một số mẫu hình khí có thể cho phép chẩn đoán cụ thể và do đó ảnh hưởng đến quản lý bệnh nhân. Những mẫu hình khí đặc biệt đó thường tinh vi và có thể bị bỏ qua nếu không được cân nhắc khi đọc phim X quang bụng.
Mục tiêu của bài tổng hợp này nhằm diễn tả việc đánh giá phim X quang bụng và các mẫu hình khí, phân bố khí trong ổ bụng, phân nhóm vị trí khí ở trong hoặc ngoài tạng rỗng. Các tác giả sẽ (a) minh họa một loạt mức độ chẩn đoán từ phim X quang để từ đó hướng dẫn quản lý tiếp theo, đặc biệt sử dụng đúng lúc và hợp lý siêu âm và cắt lớp vi tính, (b) bàn luận các vấn đề lâm sàng thường gặp đối với phim X quang bụng, (c) diễn tả vai trò của các kỹ thuật tiên tiến hơn. Read the full post »

Các tiêu chuẩn siêu âm phân biệt tổn thương vú

(Lược dịch từ: Breast ultrasound: evaluation of echographic criteria for differentiation of breast lesions . Maria Julia Gregorio Calas; Hilton Augusto Koch; Maria Virginia Peixoto Dutra. Radiol Bras vol.40 no.1 São Paulo Jan./Feb. 2007)

Ung thư vú là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất gây tử vong ở phụ nữ [1]. Cho đến nay, X quang vú là kỹ thuật duy nhất đã được chứng minh là góp phần vào phát hiện sớm và làm giảm tỷ lệ tử vong do ung thứ vú. Tuy nhiên, độ chính xác của phương pháp này phụ thuộc nhiều vào thành phần mô vú và các đặc điểm tuyến vú [1-4].
Sự kết hợp các phương pháp chẩn đoán hình ảnh, trong đó có siêu âm, đã được sử dụng thành công trong việc chẩn đoán ngày càng sớm hơn ung thư vú [1-4]. Siêu âm, được sử dụng trong chẩn đoán và can thiệp, đóng vai trò là phương pháp bổ sung quan trọng cho chụp X quang vú lâm sàng và giá trị ngày càng mở rộng trong chẩn đoán các bệnh vú khác [1-4]. Read the full post »

Siêu âm bất thường mạch máu (phần 1): u mạch máu

Siêu âm các bất thường mạch máu

phần 1: u mạch máu

( dịch từ Vascular anomalies. Josée Dubois and F. Rypens. Ultrasound Clin 4 (2009))

Kể từ năm 1980 đã có rất nhiều bài báo nghiên cứu làm sáng tỏ sự nhầm lẫn phổ biến về các bất thường mạch máu. Bất chấp nhưng nỗ lực đó, việc sử dụng thuật ngữ không thích hợp vẫn phổ biến, dẫn đến các mô tả chẩn đoán hình ảnh không chính xác và đôi khi là những chẩn đoán sai và quản lý không đúng các bất thường mạch máu [1].
Phân loại sinh học đã giúp giải quyết phân loại bệnh học các bất thường mạch máu ở 90% các tổn thương. Phân loại này được Mulliken ở Glowacki mô tả lần đầu tiên vào năm 1982, tiếp sau đó được Hiệp hội quốc tế nghiên cứu các bất thường mạch máu (ISSVA) ở Rome sửa đổi và thông qua vào năm 1996 [2,3].
Các bất thường mạch máu được phân thành hai nhóm sinh học riêng biệt: các khối u mạch máu đặc trưng bằng sự loạn sản và tăng sinh tế bào lúc khởi đầu; các dị dạng mạch máu đặc trưng bởi sự rối loạn phát triển hình dạng, chuyển đổi nội mô bình thường. Read the full post »

Kỹ thuật MR tiên tiến chẩn đoán u não người lớn (phần tiếp)

Các kỹ thuật cộng hưởng từ tiên tiến trong chẩn đoán các khối u não trong trục ở người lớn
(dịch từ Advanced MR Imaging Techniques in the Diagnosis of Intraaxial Brain Tumors in Adults

RadioGraphics 2006;26:S173-S189.

Riyadh N. Al-Okaili et all)

(phần 2 và hết)

3. Lymphoma (u lympho, u bạch huyết)
U lympho (lymphoma) nguyên phát của hệ thần kinh trung ương chiếm 2% các khối u lympho ngoài hạch. Tỉ lệ bệnh lưu hành đạt mức cao nhất ở giữa thập niên thứ năm và thứ sáu của cuộc đời. Bệnh thường hay liên quan đến tình trạng suy giảm miễn dịch, gồm cả tình trạng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS). Read the full post »

Kỹ thuật MR tiên tiến chẩn đoán u não người lớn

Các kỹ thuật cộng hưởng từ tiên tiến trong chẩn đoán các khối u não trong trục ở người lớn
(dịch từ Advanced MR Imaging Techniques in the Diagnosis of Intraaxial Brain Tumors in Adults

RadioGraphics 2006;26:S173-S189.

Riyadh N. Al-Okaili et all)

(phần 1)

Trong những nghiên cứu lớn nhất về sinh thiết não lập thể (hay sinh thiết não định hình hướng động tạm dịch từ stereotactic brain biopsy) thì các khối u não trong trục phổ biến nhất là các khối u nguyên phát bậc cao (36% các trường hợp), các khối u nguyên phát bậc thấp (33%), di căn (8%), u lympho (5%), các tình trạng viêm và hủy myelin (3%), nhồi máu (2%) và áp xe (1%) [1]. Theo chúng tôi biết trong những nghiên cứu sinh thiết não lập thể lớn nhất thì những tổn thương não (giống u) không ngấm thuốc là những loại tổn thương sau: các khối u thần kinh đệm (glioma), các tổn thương hủy myelin giả u (tumefactive demyelinating lesion), các viêm não [2]. Do đó chúng tôi đưa một bài tổng hợp những đặc điểm kỹ thuật cộng hưởng từ tiên tiến của các khối u trong trục và bệnh giống u ở người lớn. Read the full post »

Hình ảnh giải phẫu dây chằng chéo trước của gối

Dây chằng chéo trước (anterior cruciate ligament, ACL) chạy chéo từ xương chày đến lồi cầu ngoài xương đùi. Nó là dây chằng nội khớp nhưng ngoài màng hoạt dịch, bao gồm các sợi chạy từ vùng phía trước gian lồi cầu đầu trên xương chày đến mặt trong lồi cầu ngoài xương đùi (trong rãnh liên lồi cầu). Các sợi của dây chằng chéo trước xếp thành hai bó gọi là bó trước-trong và bó sau-ngoài theo chỗ bám của chúng tại xương chày [1]. Bó trước-trong bám ở trong và cao hơn tại mặt trong lồi cầu ngoài xương đùi, bó sau-ngoài bám ở ngoài hơn và thấp hơn tại mặt trong lồi cầu ngoài xương đùi. Đôi khi có một bó trung gian thêm vào bám ở giữa hai bó này [2,3]. Hai bó trước-trong và sau-ngoài có thể nhìn thấy rõ trên các ảnh cộng hưởng từ với từ lực 1.5T (hoặc lớn hơn) theo mặt cắt thông thường (đứng dọc, đứng ngang) hoặc các mặt cắt bổ sung (oblique-sagittal, paracoronal) [5]. Các số đo toàn bộ dây chằng chéo trước có chiều dày xấp xỉ 38mm và chiều rộng 11mm [4]. Bó trước-trong có chiều dài 36,9 ± 2,9 mm, bó sau-ngoài dài 20,5 ± 2,5 mm. Cả hai bó có kích thước chiều rộng cấu trúc bên trong tương tự nhau 5,0 ± 0,7 mm và 5.3 ± 0.7 mm [5]. Read the full post »

Các kiểu phản ứng màng xương – vỏ xương

Màng xương phản ứng với sự xâm lấn bằng sự tạo xương với cường độ đáp ứng phụ thuộc vào mức tiến triển nhanh của tổn thương ban đầu. Phản ứng màng xương này chỉ có thể thấy khi nó ở vùng mất chất vôi, biểu hiện mất chất vôi xảy ra cùng với phản ứng màng xương nhưng luôn biểu hiện muộn, bệnh nhân càng trẻ biểu hiện mất chất vôi càng sớm (15 ngày đến 3 tháng). Điều này giải thích trường hợp các khối u tiến triển tương đối chậm, các tổn thương này luôn có trong các phim X quang đầu tiên, trong khi bệnh lý nhiễm khuẩn tiển triển đột ngột hơn thì phản ứng màng xương không có trong các phim X quang đầu tiên mà thường xuất hiện sau. Read the full post »

Các nang tuyến tiền liệt

Các nang và tổn thương dạng nang ở tuyến tiền liệt là những thực thể thường gặp trong siêu âm. Một nghiên cứu gần đây thấy tỷ lệ nang ở đường giữa tuyến tiền liệt phát hiện qua siêu âm đường ổ bụng là 7,6% ở những người không có triệu chứng, các nang này là những biến thể bình thường [1]. Với những bệnh nhân có triệu chứng tiết niệu sinh dục, phát hiện các nang ở tuyến tiền liệt cần được tập trung đánh giá xem nang gây triệu chứng hay chỉ là biến thể bình thường. Read the full post »

Chúc mừng năm mới Giáp Ngọ 2014

chuc mung nam moi

Chân thành cảm ơn các bạn đã đến với blog của tôi trong năm qua làm cho kiến thức ngày càng được lan rộng. Những lượt ghé thăm, những lời động viên và góp ý của các bạn là những đóng góp quan trọng làm cho kiến thức ngày càng phát triển chất lượng.

Năm mới xin chúc các bạn và gia đình đón Tết vui vẻ, đầm ấm!

Kính chúc các bạn và gia đình một năm mới an khang, thịnh vượng, hạnh phúc và thành đạt!

Một số hình ảnh siêu âm trong Vô sinh nam

Giải phẫu tiền liệt tuyến trên siêu âm qua trực trực tràng

Tiền liệt tuyến (TLT) có hình dạng giống hình chóp đảo ngược. TLT nằm ở đằng sau cung dưới của khớp mu và ở phía trước bóng trực tràng (Hình 1A). Đỉnh của nó tựa vào mặt trên của hoành niệu – dục và gắn với mặt sau của xương mu. Vùng phía trên được gọi là đáy của tuyến, là vùng lớn nhất và sát bờ dưới của đáy bàng quang. Có một bao xơ mỏng bao quanh phần sau ngoài của TLT. TLT ngăn cách với trực tràng bởi lớp quanh TLT và một màng gọi là mạc Denonvillier (Hình 1B). Đám rối tĩnh mạch Santorini nằm trong mô liên kết bao quanh phía trước và phía dưới TLT. Trong các vùng sau ngoài của TLT có các cặp mạch máu và thần kinh gọi là các bó mạch máu – thần kinh chạy chếch vào trong TLT. Các nhánh từ các bó mạch máu thần xuyên vỏ đi vào TLT [1,2].

  Read the full post »

Siêu âm túi mật

Hiện nay trên thế giới siêu âm vẫn là phương pháp chẩn đoán hình ảnh hàng đầu trong đánh giá túi mật và đường mật. Các chỉ định chính gồm nghi ngờ sỏi mật, viêm túi mật, và tắc mật. Read the full post »

Xẹp thùy phổi: các khó khăn chẩn đoán trên phim X quang

Lobar atelectasis: diagnostic pitfalls on chest radiography

1.     K Ashizawa,

2.     K Hayashi,

3.     N Aso and

4.     K Minami

British Journal of Radiology (2001) 74, 89-97

—————————————————————————

 

Xẹp phổi thùy: Các khó khăn chẩn đoán trên phim X quang ngực

Chẩn đoán xẹp phổi thùy không khó nếu hình ảnh X quang điển hình [1-4]. Tuy nhiên, khi các đặc điểm X quang của xẹp phổi thùy khác thường có thể bị bỏ qua hoặc dẫn đến chẩn đoán sai với các bệnh khác, gây chậm trễ chẩn đoán và quản lý [1-4]. Trong bài tổng hợp hình ảnh này chúng ta sẽ xem xét các biểu hiện khác thường của xẹp phổi thùy trên phim X quang ngực.

Chúng tôi sắp xếp các biểu hiện khác lạ của xẹp phổi thùy thành 3 nhóm: Nhóm 1: xẹp phổi gây giảm nhiều thể tích; Nhóm 2: xẹp phổi biểu hiện dưới dạng khối mờ; và Nhóm 3: xẹp phổi ở vị trí khác thường. Read the full post »

Các tổn thương của mô mềm và da đầu mặt cổ (phần 3): tổn thương cơ

V. Các tổn thương liên quan đến cơ

1. Cơ nâng đòn (levator claviculae muscle)

Cơ nâng đòn là một cơ bình thường ở 2% đến 3% dân chúng. Cơ mọc từ các củ trước của các mỏm ngang đốt sống cổ trên, chạy xuống giữa cổ tới cơ ức đòn chũm và bám vào 1/3 giữa hoặc 1/2 ngoài xương đòn (Hình 26). Nó có thể ở một bên hoặc hai bên. Điều quan trọng về hình ảnh của cơ này là nhận ra nó là một cấu trúc bình thường chứ không phải là hạch bạch huyết to, mạch máu không ngấm thuốc, hoặc các khối khác [89,90]. Read the full post »

Các tổn thương của mô mềm và da đầu mặt cổ (phần 2): tổn thương tổ chức kẽ, các hội chứng trâm – móng

III. Các tổn thương tổ chức kẽ

1. Sacôm Fibrosarcoma

Mặc dù sacôm xơ (fibrosarcoma) trước đây được cho là một trong số các sarcoma hay gặp nhất, tuy nhiên sự mô tả sai các đặc điểm của các tổn thương xơ lành tính (fibromatoses) trước đó đã dẫn tới tỷ lệ mắc của fibrosarcoma được báo cáo thấp hơn. Kết quả là hiện nay fibrosarcoma tụt lại sau u mô vào xơ ác tính (malignant fibrous histiocytoma) về tần số [74]. Mặc dù có thể gặp ở mọi lứa tuổi, fibrosarcoma phổ biến hơn ở thập niên thứ năm tới thứ tám, một đỉnh nhỏ hơn gặp ở giai đoạn mới sinh và trẻ nhỏ. Có một tỷ lệ mắc tăng ở nam giới và các vị trí bị bỏng hay bức xạ, nhưng hay xảy ra các sacôm khác hơn, như u mô bào xơ ác tính. Read the full post »

Các tổn thương của mô mềm và da đầu mặt cổ (phần 1): da, tổ chức dưới da và tổn thương chứa mỡ

GIỚI THIỆU

Có sự biểu hiện đa dạng của các tổn thương mô mềm và da đầu mặt cổ có thể bắt gặp khi chụp CT và MRI. Mặc dù có nhiều loại tổn thương như vậy ở đầu mặt cổ, trong phần này và các phần tiếp theo sẽ chỉ đề cập một số lớn các tổn thương phổ biến trong đó và bàn luận các chẩn đoán phân biệt thích đáng.

  Read the full post »

Tắc ruột non: Những dấu hiệu chẩn đoán hình ảnh quan trọng

Small Bowel Obstruction: What to Look For

Ana Catarina Silva, MD • Madalena Pimenta, MD • Luís S. Guimarães, MD

RadioGraphics 2009; 29:423–439

—————————————————————————-

Tắc ruột non: Những dấu hiệu chẩn đoán hình ảnh quan trọng  

Giới thiệu

Tắc ruột non (small bowel obstruction, SBO) là một tình trạng lâm sàng phổ biến do tắc cơ học hoặc chức năng của ruột non, nó cản trở lưu thông các thành phần trong lòng ruột. Tắc ruột non là nguyên nhân của một trong các lý do thường gặp để tư vấn phẫu thuật và nhập viện, chiếm 20% các trường hợp phẫu thuật do đau bụng cấp tính [1,2]. Read the full post »